Đôi điều cảm nhận về thơ lục bát của nhà thơ Đặng Vương Hưng

Nhà văn Đặng Vương Hưng và một số văn nghệ sĩ, trí thức tham gia Hội thảo "Những lá thư thời chiến Việt Nam" với lịch sử, truyền thống và văn hóa dân tộc, Hà Nội, ngày 27/7/2017

Vào những năm 80 của thế kỉ trước, trên diễn đàn Văn học nghệ thuật xuất hiện một gương mặt rất mới đầy triển vọng, cây bút trẻ đầy nhiệt huyết, đó chính nhà thơ mang áo lính Đặng Vương Hưng. Anh đạt giải A Chùm thơ viết về lính chốt trên điểm tựa biên giới Lạng Sơn, trong Cuộc vận động sáng tác Văn - Thơ - Ca khúc cho Thanh niên, do Trung ương Đoàn TNCS HCM và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức (1981 - 1982). Thành công bước đầu như nguồn động lực lớn đối với thành quả mà anh đạt được trong suốt hơn bốn mươi năm qua.

Thơ Lục Bát vốn là thể thơ truyền thống của dân tộc. Làm thơ Lục Bát hay không phải là dễ. Đặng vương Hưng đã chọn, chắc hẳn là anh rất yêu và “say”. Niềm say mê ấy đã được anh ấp ủ một thời gian khá dài và sắp cho ra đời đứa con tinh thần mà mọi người đang đón đợi chính là Tuyển tập LỤC BÁT MỖI NGÀY với gần ngàn bài.

Nhiều người yêu thơ Đặng Vương Hưng sẽ dành cho anh rất nhiều lời mến mộ đối với một tác giả tài hoa. Còn tôi, đọc thơ anh đã rất tâm đắc cách tác giả khai thác đề tài. Trong thế giới thơ, đề tài vốn rất rộng: Gia đình, quê hương, tình yêu… rất đỗi quen thuộc mà nhiều người gửi gắm cảm xúc. Riêng anh thì khác, cái đề tài lớn nhưng lại được anh chạm tới từng góc cạnh rất đời thường. Chất liệu là các sự vật xung quanh ta tưởng như rất bình thường nhưng được anh thổi hồn vào đó. Từ cái “Cổng làng” quen thuộc đến “Chùa làng”, “Cơm quê”, “Tóc rối” đến hình ảnh trong thơ văn như Chí Phèo, Thị Nở, Thị Mầu, Mẹ Đốp… dường như tất tật các sự vật, sắc thái tình cảm như giận, hờn, thương, nhớ, yêu, ghét, đều được anh đưa vào thơ.

Mỗi vần thơ đều mang hơi thở của cuộc sống thường nhật. Những câu thơ lóng lánh sắc màu cảm xúc, tạo điểm nhấn ấn tượng. Có khi mang tính triết lí sâu sắc như “Học quên để nhớ”: “Học quên để... nhớ cho nhiều/ Học hờn giận để... cưng chiều đấy thôi// Học lẻ loi để... có đôi/ Học ghen là để.... cho người thêm yêu.// Em thì xa vắng bao nhiêu/ Tôi đành học cách nói điều vu vơ// Học sắc sảo để... dại khờ/ Học già dặn để... ngây thơ thuở nào...// Tôi giờ còn lại chiêm bao/ Cố trần tục để... thanh tao kiếp người// Mải mê học khóc cho... cười/ Quên hờ hững để cùng người đam mê...”.

Đưa ra hai mặt trái chiều của cuộc sống để suy ngẫm để hoàn thiện bản thân mình. Tôi rất tâm đắc với lời bình của tác giả Vũ Nho: “Mỗi câu thơ có hai mặt đối lập. Nhà thơ "đi học" một mặt này là nhằm vào cái mặt đối lập kia của nó: Quên để nhớ, hờn giận để cưng chiều, lẻ loi để có đôi, ghen để thêm yêu... Và đặc biệt là: "Học sắc sảo để dại khờ / Học già dặn để ngây thơ thuở nào"... Nghĩa là, người ta học là để sống cuộc sống thật sự của con người, chứ không phải để trở thành những vị thánh! Triết lý giản dị ấy, trong đời ai cũng gặp, nhưng đâu phải ai cũng nhận ra!”.

Hoặc trong bài “Tập đứng”: Đã đi cuối đất cùng trời/ Về quê tập đứng ở nơi bắt đầu. Đọc hai câu thơ của tác giả, ta chợt nhận ra một triết lí rất giản đơn mà sâu sắc mang tính chiêm nghiệm về cuộc đời của mỗi con người không phải ai cũng thấm được hết. Suốt cuộc đời, đến một lúc ta mới “Ngộ” ra những bài học trong cuộc sống mà trải qua mới cảm nhận được.

Đôi khi triết lí về cuộc sống được đan xen với tình cảm, liền mạch thống nhất. Đó là bài thơ “Nỗi nhớ” được anh sáng tác tháng 5/1981. Tác phẩm ra đời vừa tròn bốn mươi năm. Cảm xúc bồi hồi nhớ nhung của anh lính trẻ ngày ấy chạm tới trái tim bạn đọc. Theo suốt chiều dài của "Nỗi nhớ" là tình yêu bỏng cháy, thiết tha, cứ vang ngân lên như phím đàn với giai điệu trầm bổng, sâu lắng… Bài thơ khép lại bằng hình ảnh mang tính khẳng định thật đáng yêu: "Nỗi nhớ không có tuổi già/ Và em thì mãi vẫn là của anh". Nỗi nhớ không có tuổi hay tình yêu không có tuổi. Và em… chỉ có một.

Viết về hình ảnh người bà, người mẹ, anh luôn dành tình cảm yêu thương, kính trọng, biết ơn. Tôi rất ấn tượng với bài thơ tóc “Tóc rối”: “Nhớ xưa khi mẹ gội đầu/ Thơm hương bồ kết với màu sả xanh/ Tóc rối thì giắt mái gianh/ Những vo tóc nhỏ vẫn dành cho con/ Bây giờ tóc rối đã xa/ Như thời cổ tích của bà còn không?”. Hình ảnh đó gọi về kí ức tuổi thơ của biết bao người, gợi nhớ về một thời đã xa. Bao đứa trẻ được ba, mẹ đổi tóc rối lấy que kẹo mạch nha ngọt lịm. Món quà nho nhỏ mà suốt cuộc đời mang theo.

Nhắc nhở ta nhớ về hình ảnh người bà và người mẹ cả đời chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh, bài “Nhớ bà” (đã được phổ nhạc thành ca khúc cùng tên) có những câu thơ khiến người đọc rưng rưng: “Ngủ mơ nghe tiếng thạch sùng/ Nhớ đêm mưa dột trên mùng bà tôi// Miếng trầu khô miệng bình vôi/ Còng lưng vẫn chiếc áo tơi ra đồng// Đèn dầu đợi suốt đêm đông/ Chồng con ra trận mãi không thấy về...// Dáng bà cong cả triền đê/ Đội mưa, cõng nắng, chở che suốt đời// Lớn lên biết nhớ thương Người/ Chỉ còn nấm mộ bà tôi giữa đồng...”.

Một số khách mời Hội thảo khoa học "Những lá thư thời chiến Việt Nam" với lịch sử, truyền thống và văn hóa dân tộc, Hà Nội, ngày 27/7/2017 (từ trái qua)" Nhà Sử học Dương Trung Quốc, Trung tướng Hữu Ước, bà Trần Hồng Dung, Anh hùng LLVTND Thiếu tướng Phan Văn Lai, TS. Phạm Quang Nghị (nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội, nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin), nhà văn Đặng Vương Hưng, GS. Hoàng Chương, PGS.TS Trần Đức Cường (Chủ tịch Hội Khoa học Lich sử Việt Nam và PGS.TS Đoàn Thị Tình.

Gia đình là bến đỗ bình yên nhất của cuộc đời mỗi con người, là nơi yêu thương vô điều kiện. Sau bao giông tố, chông gai muốn dừng chân nơi mình đã sinh ra, như chim mỏi cánh tìm về nơi tổ ấm: “Mẹ ơi! Con đã trở về/ Sau bao giông tố, bùa mê của đời// Đã đi cuối đất, cùng trời / Chồn chân lại muốn về nơi sinh thành…” (Mẹ ơi con đã trở về).

Bức tranh làng quê Việt Nam trong thơ Đặng Vương Hưng với bao sắc màu, thể hiện chiều sâu của cảm xúc. Người ta dễ bắt gặp lại những hình ảnh quen thuộc mà rất đỗi thân thương. Từ cái “Cổng làng” quen thuộc với bao kỉ niệm của tuổi thơ, vẫn sững sững hiên ngang trước thời gian, chứng kiến sự thay đổi của làng quê, tình làng nghĩa xóm: Đi xa về thấy ấm lòng / Tuổi thơ còn mãi phía trong cổng làng... “Về quê nhặt cỏ hái rau”, “Mùa gặt” với “Sợi rơm vàng”, mùi hương ổi nồng nàn. Hình ảnh mùa “Giáp hạt”: Mùa về theo cánh chim ri /Sáo diều trầm bổng thầm thì hồn quê… hiện về theo kí ức của những năm tháng nhọc nhằn của tuổi thơ, được tác giả tái hiện qua những vần thơ lục bát ngọt ngào, mộc mạc, giản dị. Vốn sinh ra từ quê hương của những làn điệu Quan họ mượt mà, nên âm hưởng Lục Bát trong thơ anh cũng giàu tính nhạc như giai điệu của bài hát…

Viết về đề tài chiến tranh, Đặng Vương Hưng dành khá nhiều trang về hình ảnh người lính. Trân trọng biết ơn thế hệ đi trước đã hiến dâng trọn vẹn tuổi thanh xuân cho đất nước, mỗi vần thơ lay động trái tim biết bao người: “Điểm danh”, “Những ngôi mộ gió”, “Gọi hồn lính trận”, “Vạn lý biển Đông”, “Thắp nến tri ân”… Trước vong linh liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, anh viết trong niềm xúc động vô bờ: “Bây giờ cỏ đã lên xanh/ Cái thời bom đạn chiến tranh xa rồi/ Tiếng chim hót mãi xanh trời/ Hương hoa thơm ngát quanh nơi chị nằm” (Mãi mãi tuổi xuân).

Nghĩa trang Trường Sơn, nơi yên nghỉ của hàng ngàn anh hùng liệt sĩ, có những người đã có tên, có những người chưa biết tên: “Giữa ngàn bia mộ Trường Sơn/ Thấy bao hồn lính cô đơn lên trời// Hình như máu vẫn còn tươi/ Trái tim còn đập/ Tiếng cười còn vang?// Hình như bom đạn vội vàng/ Bao gương mặt lính vẫn đang mỉm cười?// Tuổi thì mãi mãi hai mươi!/ Tình thì mãi mãi là người đang yêu!// Nếu trời cho ước một điều.../ Liệt sĩ sống lại!/ Bao nhiêu Sư đoàn // Bỗng nghe ca khúc khải hoàn…/ Bước chân rầm rập…/ Quân đoàn diễu binh…(Mãi mãi tuổi hai mươi).

Tái hiện lại hiện thực của cuộc chiến đau thương, tái hiện lại hình ảnh của thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng. Cuốc chiến ấy như mới hôm qua: Trái tim còn đập, tiếng cười còn vang? Câu thơ như ám ảnh như xoáy vào tâm trí mỗi chúng ta bằng một loạt câu hỏi tu từ với giọng điệu trầm lắng, bi hùng…

Khi “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới”, hàng triệu người dân Việt Nam không bao giờ quên. hàng vạn người lính không bao giờ quên những năm tháng đau thương, hào hùng của dân tộc. Là người trực tiếp cầm súng bảo vệ Tổ quốc, có lẽ Đặng Vương Hưng cảm nhận sâu sắc về tình yêu quê hương đất nước của đồng đội, đồng chí của mình. Biết bao nhiêu lá đơn tình nguyện được viết bằng máu hừng hực chí căm hờn, gương chiến đấu quên mình như anh hùng Lê Đình Chinh, Hoàng Thị Chiên... Biết bao nhiêu chiến sĩ đã hi sinh để gìn giữ mảnh đất thiêng liêng của cha ông ta gây dựng từ ngàn đời: “Mười năm dọc dải biên thùy/ Bao nhiêu người lính vẫn đi chiến trường/ Núi rừng cất giấu máu xương/ Giữ từng tấc đất biên cương rộng dài...// Mười năm cuộc chiến dẳng dai/ Bao người ngã xuống những ai không còn?/ Mười năm mưa nắng héo hon/ Bao người mẹ đã mỏi mòn đợi trông..." (Trích trong bài “Mười năm”).

Mười năm trong kí ức của người lính là tình cảm tự hào, xen lẫn cả nỗi xót xa. Những câu thơ trăn trở như nhắc nhở mọi người: Hãy ghi nhớ, nâng niu thành quả mà biết bao lớp người đã phải đánh đổi bằng xương máu. Cuộc chiến kéo dài mười năm cùng là mười năm biết bao người mẹ, người vợ mòn mỏi ngóng đợi cha, đợi chồng… Như một khúc tráng ca dành tặng những người lính với giai điệu biết ơn, trân trọng và tự hào…

Riêng về tình yêu lứa đôi trong thơ anh, có lẽ rất nhiều người có cảm nhận giống tôi: Thơ Đặng Vương Hưng hay, nhẹ nhàng tình cảm, dễ thuộc, dễ nhớ. Hình như cái anh chàng “Giời bắt làm thơ mỗi ngày” ấy thật đa tình. Một người tự nhận “Ta khờ lắm, biết gì đâu! Để ai hờn giận, Ai rầu vì ai?”(Lỗi hẹn) lại rất tình cảm khi “Viết cho em từ biên giới” đến tình yêu được đơm hoa, kết trái: Ngày bố mẹ mới yêu nhau/ Bao mơ ước cũng bắt đầu từ con (Nói với con khi chưa ra đời). Đôi khi chàng ‘khờ” cũng “Tưởng tượng” thật nhiều, “Mơ” thật nhiều… kiếm những cái cớ “Những đêm trăng núp bóng mây/ Chúng mình kiếm cớ tới đây hẹn hò”. Cách lí giải về tình yêu nghe rất hợp lí: Bao nhiêu tình nghĩa trên đời/ Bắt đầu từ thuở ông trời xe duyên (Nhân duyên). Có lúc như vội vàng: Mùa yêu ngắn lắm người ơi!/ Còn duyên đừng nói những lời xa nhau (Thử và thách). Tình yêu vốn là men say: Vô tình ánh mắt chạm nhau /Mà tim đập tựa lần đầu mới yêu (Say nắng). Như lá “bùa” khiến người ta mê đắm. Tình yêu trong thơ Đặng Vương Hưng là thế!

Có thể nói bao nhiêu trang thơ, ắt hẳn là bấy nhiêu cung bậc cảm xúc của một người luôn gắn bó với thơ, yêu thơ, yêu cuộc sống. Luôn hồn hậu, chân thành như chính con người tác giả. Mỗi trang viết của anh đều mang chiều hướng tích cực, giàu tính nhân văn, gieo mầm hi vọng: Như cỏ cây đã nảy mầm/ Mùa xuân háo hức vươn tầm hồn nhiên (Hồn nhiên). Và: Dù ai ngoảnh mặt làm ngơ/ Tôi tin và vẫn đang chờ ngày mai (Hy vọng). Một người luôn lạc quan, yêu đời, luôn hy vọng ngày mai: Đêm còn có những giấc mơ/ Ngày còn có những bài thơ dâng đời/ Hãy cười lên nhé tôi ơi! (Hãy cười lên nhé tôi ơi!). Một tấm lòng bao dung, độ lượng: “Ta cầu cái chẳng ai ham/ Tha cho mấy kẻ đã làm hại ta”… (Chùa làng).

Vòng xoay của cuộc đời mỗi con người có lúc thăng, lúc trầm. Chính cái nốt trầm là động lực để anh vươn lên làm những điều mà mọi người rất đỗi ngạc nhiên, những công trình mà ít ai làm được: Công trình sáng lập cộng đồng mạng Lục Bát Việt Nam và tổ chức Lễ hội Lục Bát hàng năm; Công trình Tổ chức cuộc vận động sưu tầm, biên soạn và xuất bản bộ sách “Những Lá thư và Nhật ký thời chiến Việt Nam”; Công trình khởi xướng và tổ chức Cuộc vận động “Sưu tầm và Giới thiệu” những kỷ vật kháng chiến (2008 - 2010); Công trình khởi xướng và tổ chức Cuộc vận động “Sưu tầm và Tuyên truyền” Kỷ vật Lịch sử Công an nhân dân (2012 – 2015); Công trình sáng lập Tủ sách “Chuyện đời tôi” và tham gia tổ chức cuộc thi cho các phạm nhân toàn quốc viết tự truyện; Công trình “Những trang sách vàng Công an nhân dân”. Đó chính là việc làm của một người có tâm, có tầm…

Bất cứ tác phẩm văn học nào thì điều đầu tiên là phải mang tính chân thực như hiện thực vốn có của cuộc sống. Sức hấp dẫn của mỗi tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa tính chân thực và sáng tạo. Nhà thơ đã làm được điều đó. Mỗi bài thơ của anh đều tạo điểm nhấn ấn tượng tạo nên cái hay, đặc sắc của bài thơ. Và cách khai thác đề tài đã tạo nên phong cách Lục Bát Đặng Vương Hưng rất riêng.

Dĩ nhiên, đó chỉ là cảm nhận của cá nhân tôi, dưới góc độ của bạn đọc. Còn bạn, nếu là người yêu thơ, chắc chắn bạn đã được đọc những bài thơ Lục Bát của Đặng Vương Hưng được đưa đều đặn lên mạng xã hội mỗi ngày… Bạn thích bài nào nhất, hoặc câu nào nhất?

Yên Thế, tháng /7/2021 - PTH

Theo trái tim Người lính

Phạm Thúy Hậu